How BAD Are Arsenal ACTUALLY?
1. Ưu và nhược điểm của Inverted Wingback.
Trong lịch sử, các hậu vệ cánh thường có vai trò rộng nhất trong hàng hậu vệ 4 người và được giao nhiệm vụ trong các cuộc đấu tay đôi phòng ngự một đấu một với cầu thủ chạy cánh đối phương và cung cấp sự hỗ trợ chồng biên cho cầu thủ chạy cánh - vai trò ‘up-and-down'.
Tuy nhiên trong bóng hiện đại những gì các hậu vệ cánh phải làm khi sở hữu bóng ,triển khai bóng ở phần sân nhà và tấn công ở một phần ba cuối sân ngày càng nhiều hơn.
John Stones, Oleksandr Zinchenko và Trent Alexander Arnold - vai trò của hậu vệ cánh đã thay đổi đến mức không thể nhận ra so với thời Gary Neville và Ashley Cole bố trí hai bên cánh.
Thời đại hậu vệ cánh chỉ được coi là vai trò hỗ trợ đã qua.
Tuy nhiên, những hlv khác nhau sử dụng Inverted Wingback với những vai trò khác nhau.
Mikel Arteta của Arsenal thường đảo ngược Zinchenko từ hậu vệ trái bên cạnh tiền vệ phòng ngự để có thể sử dụng khả năng chuyền bóng của cầu thủ người Ukraine để đưa bóng vào khu vực một phần ba cuối sân bằng những đường chuyền ngắn.
Jurgen Klopp của Liverpool đảo ngược Trent Alexander-Arnold rất khác với ý định đảo ngược của Zinchenko. Mục tiêu của Klopp là đưa người chuyền bóng sáng tạo chính của ông vào các khu vực trung tâm hơn để có nhiều góc độ hơn thực hiện những đường chuyền dài đặc trưng của mình.
Ange Postecoglou của Tottenham đã tiến thêm một bước chiến thuật này bằng cách tung cả hai hậu vệ cánh của Tottenham vào hàng tiền vệ. Điều này mở ra các đường chuyền cho các cầu thủ chạy cánh của Tottenham.
Guardiola đã thực hiện một sự điều chỉnh sâu hơn bằng việc đẩy một trong những trung vệ Manuel Akanji hoặc Stones – vào hàng tiền vệ.
Ưu điểm của việc này so với việc đảo ngược một hậu vệ cánh là một trung vệ sẽ chạy nước rút ngắn hơn để thay đổi vị trí giữa giai đoạn phòng ngự và triển khai bóng.
Hơn nữa, điều này để lại một cầu thủ phòng ngự tự nhiên hơn - một trung vệ - để ngăn chặn các pha phản công từ trung lộ nếu mất bóng.
Mikel Arteta đã áp dụng cả 2 cách chơi này với Kiwior và Zinchenko.
Quãng đường Kiwior quay về phòng ngự và triển khai bóng tự nhiên ngắn hơn so với Zinchenko.
Zinchenko xuất hiện ở khu vực giữa sân với mục đích kiểm soát bóng nhưng sẽ chỉ tốt khi có bóng. Trong quá trình chuyển đổi phòng ngự , Zinchenko đều làm không tốt.
Kiwior không đủ kỹ thuật để chơi ở tiền vệ , điều này làm giảm khả năng kiểm soát và triển khai bóng của Arsenal.
1. Khi sở hữu bóng.
Khi triển khai bóng, sơ đồ cơ bản 4–3–3 của Arsenal có thể giống với 3–2–5/3–2–2–3 nhưng mùa giải này Pháo thủ cũng đã sử dụng sơ đồ 4–2–4 rộng .
Một lý do giải thích cho sơ đồ 4–2–4 của Arsenal là thủ môn David Raya chủ động hơn Ramsdale trong các pha cầm bóng. Vị trí của Raya (gần như ở vị trí trung vệ thứ ba) cho phép Gabriel và Saliba di chuyển rộng hơn, đồng thời tạo điều kiện cho Ben White di chuyển về phía trước, ngoài ra Raya phát triển bóng tốt hơn Ramsdale. Khả năng này đặc biệt hữu ích với Pháo thủ vì cấu trúc 4–2–4 của Arsenal giúp kéo giãn tuyến trên của đối phương và từ đó tạo ra khoảng trống để tấn công.
Ở hàng tiền vệ Rice, Jorginho, Partey được giao nhiệm vụ số 6 của Arsenal nhưng Rice ở số 6 có một chút vấn đề. Có rất ít tiền vệ ít tương thích với vị trí số 6 của Guardiola (và Arteta ở một mức độ nhất định).
Truyền thống của người Anh gần như đối lập với truyền thống Tây Ban Nha-Hà Lan mặc dù trong quá khứ cả ba đất nước này đã ảnh hưởng rất nhiều đến nhau. Positional play của người Anh thiên về thể lực , tập trung vào việc xử lý bóng, chuyền dài và tấn công theo chiều dọc.
Positional play của Tây Ban Nha-Hà Lan tập trung nhiều hơn vào chuyền bóng và khiến bóng (và đối thủ) chạy chứ không phải đồng đội. Đây là mô hình dựa trên những chuyển động ngắn của cầu thủ trong các khu vực được xác định trước.
Để hiểu được mô hình Positional play của Tây Ban Nha-Hà Lan đòi hỏi một profile cụ thể và rất, rất nhiều kỷ luật. Cầu thủ phải thực hiện các động tác ngắn, đọc khoảng trống thật tốt, biết cách định vị cơ thể thật tốt để thống trị một lĩnh vực nhất định theo cách lý tưởng hóa của huấn luyện viên.
Đó là lý do tại sao những cầu thủ như Ribery và Yaya Toure không thích chơi cùng Pep nhưng Xavi hay Rodri lại thích điều đó. Đây là lý do tại sao Busquets nói với Barcelona rằng người thay thế anh không nên là Kimmich mà là Zubimendi. Kimmich là một trong những tiền vệ xuất sắc nhất thế giới nhưng lớn lên theo văn hóa của người Đức. Để chơi Positional play giỏi bạn cần phải hiểu thật rõ về mô hình.
Với Guardiola, cầu thủ cần hiểu rõ mô hình Positional play nhất chính là tiền vệ. Đó là lý do tại sao Rodri đã chơi rất tốt ở City và đó là lý do tại sao khi City ký hợp đồng với Perrone, điều đầu tiên Guardiola nói là đang tìm kiếm những cầu thủ có thể di chuyển trong không gian ngắn.
Vì vậy với Declan Rice , một người đã quen với mô hình Positional play của Anh nhưng hoàn toàn trái ngược với mô hình của Tây Ban Nha. Đây không phải là điều mà số 6 của Arteta nên sử dụng.
Declan Rice tốt hơn rất nhiều ở 8 LCM của Arsenal.
3. Kai Havertz
Havertz là một luxyry player, một cầu thủ giỏi, có những đặc điểm elite nhưng chỉ hoạt động tốt trong những hoàn cảnh cụ thể ở vai trò tiền vệ.
Havertz có điểm tương đương hoặc cao hơn Xhaka về mọi mặt nhưng thua xa ở khả năng chuyền bóng.
Hậu quả mối đe dọa dự kiến của Arsenal chủ yếu từ hai cánh.
xT của Arsenal chủ yếu xuất hiện ở 2 cánh và half space, khác xa với xT của Arsenal mùa giải 22/23.
Điều này được giải thích bởi ở cuối sân Arsenal sẽ hình thành front 4 , Havertz vs #9, 2 cánh tìm cách kéo giãn hàng phòng ngự.
Điều này gây ra bất lợi cho 2 cánh của Arsenal là Martinelli và Saka.
Cả hai trở thành những winger anti tempo , rê bóng rồi tạt hoặc chuyền về. Phương án duy nhất để Saka cắt vào trong là Ben White dâng cao để chồng cánh.
Saka có tiềm năng ghi bàn rất lớn ở right halfspace trong khi đó Martinelli là một trong những winger nguy hiểm nhất EPL khi được chơi xâm nhập.
Việc bỏ lỡ một số 8 như Xhaka ảnh hưởng nặng nề đến phong độ của Martinelli.
Khả năng tạt Left Half Space, chồng biên với Martinelli ,cutback vào vòng cấm, chuyền ra phía sau hàng phòng ngự cho runner ,khả năng liên kết , chuyển đổi trạng thái.
Những vấn đề Arsenal gặp ở mùa giải này lại là những gì hay nhất của Xhaka.
4. Martin Odegaard
Trước khi nói về Odegaard hãy nói về Gundogan và Modric, những chuyên gia quản lý rủi ro trên sân.
Gundogan và Modric là những cầu thủ không thể thiếu , là tổng của tất cả mọi thứ, mang đến trật tự và bài bản trong cấu trúc đội hình.
Trong mọi hoàn cảnh, mọi tình huống trên sân, họ đều tính toán lại xác suất tạo ra các cơ hội và mức độ rủi ro, cả cho đội bóng của mình lẫn cho đối thủ. Họ giữ quả bóng được an toàn, khống chế và sử dụng nó hiệu quả dựa trên khả năng nhận biết thời điểm để tấn công. Gundogan và Modric duy trì tính cân bằng giữa công và thủ. Họ đích thị là những chuyên gia quản lý rủi ro trên sân bóng. Họ mang đến sự ổn định, an toàn và tính kiểm soát cho đội bóng.
Những HLV thành công đều hiểu, đội bóng của họ không thể thiếu những mẫu cầu thủ này.
https://www.theguardian.com/football/2023/jul/10/ilkay-gundogan-croatia-luka-modric-football-euro-2024-barcelona
Odegaard là Gundogan, Modric, là viên ngọc quý của Arteta , đặc biệt với thiên hướng thực hiện những pha chạy chỗ trong vòng cấm và đóng góp bàn thắng – mặc dù theo phong cách rất riêng.
Chất lượng kỹ thuật của Odegaard không cần bàn cãi nhưng khi không có Partey, Odegaard phải tham gia nhiều hơn vào các vai trò sâu hơn để giúp Rice triển khai lối chơi khi Zinchenko chưa đảo ngược. Cựu tiền vệ West Ham rất tài năng nhưng chưa phát huy hết khả năng khi được yêu cầu đảm nhận quá nhiều trách nhiệm và cũng không phải là một người quá giỏi trong khả năng triển khai bóng.
Điều chỉnh này phù hợp với khả năng và tốt cho Odegaard nhưng không cân bằng khi LCM được chơi cao hơn là Kai Havertz.
Zinchenko không phải lúc nào cũng đảo ngược và khi cần khả năng sáng tạo hoặc chuyển đổi trạng thái nhanh , Kai Havertz không đáp ứng được điều đó.
Vì điều này Arsenal thường lên bóng chậm và quá dễ bị đối phương bắt bài.