Kiểm soát thời gian, kiểm soát không gian ở hàng tiền vệ Liverpool.
Trong triết lý của Jurgen Klopp , nếu một cầu thủ có toàn quyền kiểm soát thời gian thì sẽ thống trị không gian của sân và quả bóng.
Liverpool 2.0 không chỉ phải sở hữu thời gian mà còn phải sở hữu không gian. Không tấn công ngay lập tức như Liverpool 1.0 mà duy trì quyền kiểm soát bóng hiệu quả hơn nhờ những tiền vệ kỹ thuật hơn. Liverpool2.0 dồn ép đối phương , đưa bóng đến nơi muốn, kiểm soát thời gian, nhịp độ trận đấu từ đó kiểm soát không gian phần sân tấn công.
Trent, Mac Allister và Dominic Szoboszlai giúp hàng tiền vệ kiểm soát bóng, trong khi Lavia và 3 người còn lại ở hàng hậu vệ rest defend (phòng ngự sớm , bọc lót các khoảng trống còn lại) khi không kiểm soát bóng.
Trent và Szoboszlai là 2 người sáng tạo . Trent đã đối đầu với KDB về số lần kiến tạo trong 4–5 năm qua (khi chơi ở vị trí hậu vệ cánh) trong khi đó Szoboszlai cung cấp nhiều hơn những pha kiến tạo ở 1/3 cuối sân. Mac Allister là một sự kết hợp giữa Thiago và Wijnaldum , một cầu thủ all phase có thể cung cấp khả năng giữ bóng và phát triển bóng trong không gian chật hẹp đồng thời cũng có thể giúp phục hồi quyền sở hữu bóng.
Mac Allister, Trent và Szoboszlai có vai trò riêng biệt trong hệ thống mới này. Một playmaker ( tịnh tiến bóng từ khâu buildup , chủ yếu thông qua các đường chuyền), Mac Allister kiểm soát nhịp điệu và nhịp độ trong khi Szoboszlai tạo cơ hội ở 1/3 cuối sân.
Curtis Jones đã làm rất xuất sắc trong vai trò “controller” ở cuối mùa giải.Thực hiện trung bình 37 đường chuyền mỗi trận với độ chính xác ~90% trong 9 trận gần nhất ở hệ thống mới và thậm chí hoàn thành 72 đường chuyền mỗi trận với tỷ lệ hoàn thành ~94% ở Euro U21. .
*Curtis Jones chỉ khác Mac Allister ở phong cách tịnh tiến bóng; Jones là một người tịnh tiến bóng ở các khu vực rộng , Mac Allister là một người tịnh tiến bóng ở các khu vực sâu.
Trent có số đường chuyền thành nhiều nhất trên 90p (63,95) nhưng chỉ có thể thành công 78,62% do không có khả năng sáng tạo của Henderson.Trent là playmaker chính của đội sau đó là Szoboszlai và Mac Allister.
Mac Allister không phải là người thích mạo hiểm mặc dù được chơi như một số 10 trong nửa đầu mùa giải. Trong giai đoạn cuối của mùa giải, Mac Allister được sử dụng bên cạnh Caicedo để cải thiện lối chơi buildup của Brighton. Mac Allister đủ thông minh để chọn ra những đường chuyền phù hợp và có khả năng chơi dưới áp lực. Mac Allister có tỷ lệ chuyền thành công trung bình là 88,03% trong mùa giải trước, nhiều hơn Trent và Szoboszlai. Vì vậy Mac Allister là người giữ bóng ,kiểm soát nhịp độ.
Szoboszlai được biết đến ở 1/3 cuối sân. Szoboszlai đã tạo ra 2,9 cơ hội mỗi 90 phút cho Leipzig mùa trước, Trent chỉ có thể đạt trung bình 2,1 khi chơi ở vị trí RB đảo ngược, Mac chỉ đạt trung bình 1,5 ở mùa giải trước. Sự khác biệt giữa 2 giải đấu là rất lớn nhưng về cơ bản Szoboszlai là playmaker thứ 2.
Vị trí của Mac và Szoboszlai ảnh hưởng thế nào đến hàng tiền vệ?
Các trận đấu trong giai đoạn tiền mùa giải cho thấy Mac và Szoboszlai đã được thử nghiệm tại RCM và LCM .Có thể Klopp muốn Szoboszlai ở LCM vì có thể nhận bóng ở những khu vực rộng, có những góc nhận bóng khi tấn công tốt hơn nhưng điều đó có nghĩa là Szoboszlai đôi khi phải lùi lại trong phase 1.
Mac ở RCM có nghĩa là Trent sẽ có nhiều tự do hơn để di chuyển về phía trước và sáng tạo trong 1/3 cuối sân trong khi Mac 'che chở' cho Trent trong trường hợp chuyển đổi.
Tuy nhiên điều này sẽ khiến Lavia bị cô lập , và tôi không nghĩ Lavia có thể một mình giải quyết được vấn đề.
Sở thích của tôi sẽ là Mac Allister tại LCM và Szoboszlai tại RCM, để khi Szoboszlai gây áp lực cao, Mac có thể lùi sâu để giảm khoảng cách mà Lavia phải che chắn khi không bóng. Nhưng điều đó có nghĩa là Luis Diaz nên bắt đầu ở vị trí LW để giữ chiều rộng , do đó LCB sẽ không cần phải chồng biên mà phải là một người phòng ngự tốt.